Giới thiệu
Cuộc Cách Mạng Tháng Tám, hay còn được gọi là Tổng khởi-nghĩa giành chính-quyền tháng Tám, là một cuộc cách mạng do Việt Minh tiến hành chống lại Đế quốc Việt Nam và Đế quốc Nhật Bản trong nửa cuối tháng Tám năm 1945. Việt Minh, do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, được thành lập vào năm 1941 và thiết kế để thu hút một số lượng dân chúng rộng lớn hơn so với những gì mà các cộng sản có thể kiểm soát.
Trong vòng hai tuần, lực lượng của Việt Minh đã chiếm được kiểm soát của hầu hết các làng quê và thành phố ở Bắc, Trung và Nam Việt Nam, bao gồm Huế (thủ đô của Việt Nam lúc đó), Hà Nội và Sài Gòn. Cuộc Cách Mạng Tháng Tám nhằm tạo ra một chế độ thống nhất cho cả nước dưới sự cai trị của Việt Minh. Lãnh đạo của Việt Minh, Hồ Chí Minh đã tuyên bố độc lập cho Cộng hòa Dân chủ Việt Nam vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Lịch sử nguyên thủy
Chủ nghĩa thực dân Pháp
Việt Nam đã dưới thời cai trị của thực dân Pháp từ năm 1885 cho đến cuộc đảo chính của Nhật Bản vào tháng 3 năm 1945. Trước đây vào năm 1887, người Pháp đã tạo ra Liên bang Đông Dương bao gồm ba vùng riêng biệt của Đông Kinh, An Nam và Nam Kỳ, các phần của Việt Nam, và Campuchia mới được thêm vào; Lào được tạo ra sau đó.[2] Để biện minh cho sự cai trị của mình, người Pháp khẳng định rằng đó là trách nhiệm của họ để giúp các vùng đất chưa phát triển ở châu Á trở nên "văn minh". Nếu không có sự can thiệp của người Pháp, họ khẳng định, những nơi này sẽ tiếp tục tồn tại với sự lạc hậu, thiếu văn hóa và nghèo nàn. Tuy nhiên, quan điểm này chủ yếu dựa trên thực tế rõ ràng hơn, chủ nghĩa đế quốc của Pháp được thúc đẩy bởi nhu cầu về tài nguyên, chẳng hạn như nguyên liệu thô và lao động giá rẻ.
Đồng ý rằng sự cai trị thực dân của Pháp đối với Việt Nam đã bóc lột kinh tế và dẫn đến áp bức chính trị đối với người dân bản xứ. Vì vậy, cuộc kháng chiến của người Việt chống lại chủ nghĩa đế quốc Pháp đã được định rõ từ thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ hai, và đã kéo dài gần một thế kỷ.[3] Các cuộc xâm lược bởi các tác nhân tôn giáo, thuyền chiến và nhà ngoại giao trong thế kỷ 19 đã gây ra những giai đoạn kháng cự lặp lại bởi sự trung thành của người dân Việt với chế độ của Nhà Nguyễn và giá trị truyền thống của đạo phái Nho giáo, hoàn toàn trái với lợi ích châu Âu, đặc biệt là của Pháp.[3] Từ khi người Pháp chiếm đóng Việt Nam, hàng ngàn người Việt kém vũ trang đã phản kháng kiểm soát ngoại quốc bằng những cuộc nổi loạn, trong đó cuộc nổi loạn lớn nhất là phong trào Cần Vương (Aid-the-King), một cuộc khởi nghĩa Việt Nam quy mô lớn từ năm 1885 đến năm 1889 chống lại chế độ thực dân Pháp để phục hồi quyền lực của triều đình địa phương và không chỉ là quyền lợi hình thức của quyền quốc gia bản địa đó.
Phong trào dân tộc nổi lên
Trong thời kỳ thực dân, người Pháp đã biến đổi xã hội Việt Nam. Giáo dục và công nghiệp quốc gia được khuyến khích, điều này đã tác động không mong muốn là khuyến khích sự phát triển của các phong trào dân tộc. Ở phía bắc, phong trào dân chủ nổi trội trong phong trào dân tộc khi Hồ Chí Minh thành lập Đại Việt Cách Mệnh Thanh Niên vào năm 1925. Vào ngày 3 tháng 2 năm 1930, một hội nghị đặc biệt đã được tổ chức tại Hồng Kông, dưới sự chủ tịch của Hồ Chí Minh, và Đảng Cộng sản Việt Nam sau đó được sinh ra. Vào tháng 10, theo chỉ thị của Liên Xô, tên này đã được thay đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP). Cho tới khi Đảng Cộng sản được chính thức giải tán bởi Hồ Chí Minh vào tháng 11 năm 1945, nó giữ một vị trí hàng đầu trong cuộc cách mạng chống pháp xâm của Việt Nam.[5]
Hồ Chí Minh đã có nhiều biệt danh trong quá trình vươn lên, bao gồm Nguyễn Tất Thành "Nguyễn Sẽ Thắng", Nguyễn Ơ Pháp "Nguyễn Ghét Pháp" và Nguyễn Ái Quốc "Nguyễn Yêu Nước". Những thay đổi này được sử dụng để thúc đẩy mục tiêu thống nhất công dân và khuyến khích họ phản kháng. Hồ Chí Minh có nghĩa là "Hồ Người mưu cầu Giác ngộ".
Ở phía nam, phong trào dân tộc nổi lên phức tạp hơn so với phía bắc. Cao Đài là nhóm chính trị – tôn giáo đầu tiên ở miền nam Việt Nam nổi lên trong thời kỳ thực dân. Được thành lập chính thức bởi nhân viên dân sự thuộc địa Ngô Văn Chiêu vào năm 1926, đội ngũ này sẽ trở thành tổ chức chính trị tôn giáo được quan tâm nhất của vùng miền và về các khía cạnh có thể coi là mạnh mẽ nhất. Hơn một thập kỷ sau đó, vào năm 1939, nhà tiên tri Huỳnh Phú Sổ đưa một tổ chức chính trị tôn giáo khác vào miền nam Việt Nam, bằng cách thành lập Hòa Hảo.
Sự khác biệt là Hòa Hảo nhanh chóng mở rộng quyền lực của mình ở miền nam Việt Nam nhờ vào sự kỳ diệu được cho là của mình, việc thuyết giảng và thực hiện các hành động từ thiện cực đại cho người nghèo đã khiến Huỳnh Phú Sổ thu hút hàng chục nghìn người ủng hộ vào tổ chức Hòa Hảo. Tổ chức chính trị tôn giáo thứ ba có tên là Bình Xuyên, có thể được truy nguyên trở lại những năm đầu thập kỷ 1920, nhưng Bình Xuyên không trở thành một lực lượng chính trị được tổ chức cho đến cuối Thế Chiến II. Cả ba tổ chức này đều là những nền lực chống đế quốc lớn ở miền nam Việt Nam.[6]
Ở khu vực Sài Gòn, Cộng sản cũng phải đối mặt với sự phản đối từ phe trái của Đảng Cộng sản.[7] Vào tháng 4 năm 1939, đảng Cộng sản của Tạ Thu Thâu đã chiến thắng cả hai phe Dân chủ của Đảng Cộng sản trong cuộc bầu cử Hội đồng Cochinchina.[8][9] Thống đốc Brévié, người đặt kết quả sang một bên, đã viết thư cho Bộ trưởng Thực dân Pháp Mandel: "Nhóm Trotskyista dưới sự lãnh đạo của Ta Thu Thau, muốn tận dụng một cuộc chiến tranh có thể xảy ra để giành được sự giải phóng hoàn toàn." Còn người theo chủ nghĩa Stalin thì "theo vị trí của Đảng Cộng sản ở Pháp" và "sẽ đoàn kết nếu xảy ra cuộc chiến tranh".[10]
Chiến tranh thế giới II và sự chiếm đóng của Nhật Bản
Trước năm 1945, Pháp và Nhật Bản đã cùng cai trị Việt Nam trong suốt hơn bốn năm. Vào tháng 9 năm 1940, chỉ vài tháng sau khi Pháp đầu hàng Đức, quân đội Nhật đã tận dụng sự yếu kém của Pháp để triển khai quân đội tại Bắc Việt Nam nhằm chặn đường cung cấp cho mặt trận phía nam của Chiến trường Trung Quốc. Từ năm 1940 đến tháng ba năm 1945, người Pháp vẫn giữ trách nhiệm quản lý hành chính, nhiệm vụ cảnh sát và ngay cả quân đội thuộc địa của mình để đổi lại cho quân nhật và hàng hoá đi qua Đông Dương. Tuy nhiên, vào năm 1943, có dấu hiệu rằng Nhật có thể thua cuộc trong cuộc chiến. Mỹ đã bắt đầu chiến dịch quét hàng loạt các hòn đảo Thái Bình Dương. Lực lượng đổ bộ Đồng Minh trên biển và cuộc tấn công từ Trung Quốc trở thành mối đe dọa thật sự với Nhật. Ngoài ra, sự trỗi dậy của tình cảm Gaullist ở Đông Dương sau khi Charles de Gaulle trở về Paris làm lãnh đạo Chính phủ Tạm thời Pháp từ tháng 9 năm 1944 đã gia tăng các lo ngại của Nhật.[11]
Vào tối ngày 9 tháng 3 năm 1945, lực lượng Nhật tấn công Pháp ở mọi trung tâm và loại bỏ họ khỏi quyền kiểm soát hành chính của Đông Dương. Trong thời gian chưa đầy 24 giờ, hầu hết các lực lượng quân đội thuộc địa Pháp tại Đông Dương đã bị tiêu diệt hoặc bị làm mất khả năng chiến đấu. Hệ thống quản lý thuộc địa Pháp đã tồn tại trong gần 87 năm đã sụp đổ. Gần như tất cả các nhân vật lãnh đạo dân sự và quân sự của Pháp đã trở thành tù nhân, bao gồm cả Thống đốc Hải quân Decoux.[12]
Sau khi Nhật loại bỏ người Pháp khỏi quyền kiểm soát hành chính ở Đông Dương, họ đã không cố gắng áp đặt sự kiểm soát trực tiếp của mình đối với quản lý dân sự. Với chú trọng chủ yếu vào việc bảo vệ Việt Nam khỏi cuộc xâm lược đồng minh, Nhật Bản không quan tâm đến chính trị Việt Nam mặc dù họ cũng hiểu được sự cần thiết của một mức độ nhất định của sự liên tục trong quản lý. Điều này đã là lợi thế cho họ khi họ cài đặt một chính phủ Việt Nam sẽ ưu tiên sự hiện diện quân sự Nhật Bản. Với mục đích đó, Nhật đã thuyết phục hoàng đế Nguyễn Bảo Đại của Việt Nam, hợp tác với Nhật và tuyên bố Việt Nam độc lập khỏi Pháp. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, Bảo Đại đã làm như vậy bằng cách bãi bỏ Hiệp định Bảo hộ Pháp - Việt Nam năm 1883. Sự "độc lập" mới của Việt Nam, tuy nhiên, dựa trên sự sẵn lòng của chính phủ hợp tác với Nhật và chấp nhận sự hiện diện quân sự của Nhật Bản.[13]
Cơ hội cho người Việt nam
Từ tháng ba đến tháng tám năm 1945, Việt Nam có cơ hội "giả độc lập". Trong hậu quả của cuộc đảo chính, Nhật Bản đã "hạn chế" sự thay đổi nội bộ ở Đông Dương, điều này sẽ tiếp tục tổn hại nhóm mục tiêu quân đội của Nhật. Các vấn đề về Việt Nam đã nằm trong tay người dân Việt Nam. Trong thực tế, ngay sau cơn bão ngắn ngủi của đạn vào ngày 9 tháng 3, các bên chính trị, nhóm và hiệp hội đã xuất hiện khắp nơi ở Việt Nam.[15] Ở miền nam, do vị trí yếu của phong trào cộng sản, Việt Minh không thể lãnh đạo các phong trào trong khi chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Một số tổ chức chính trị - tôn giáo đã mở rộng quyền lực của mình một cách nhanh chóng. Vào mùa hè năm 1945, các nhà lãnh đạo của Hòa Hảo mở cuộc trò chuyện với các nhà lãnh đạo của các nhóm dân tộc khác ở miền nam, bao gồm Cao Đài và Trotskyists, để chiến đấu và bảo vệ một Việt Nam độc lập khi chiến tranh kết thúc.[16]
Công cuộc chuẩn bị và cung cấp
Vào ngày 15-20 tháng 4 năm 1945, Hội nghị Quân sự Cách Mạng Đại Việt Từ điển đã phát ra một nghị quyết được tái in trên các trang 1-4 vào ngày 25 tháng Tám năm 1970 trong tạp chí Nhân Dân. Nghị quyết yêu cầu phải có một cuộc nổi dậy tổng lực, chống Nhật và tiến hành chiến tranh du kích chống Nhật bằng cách thiết lập 7 vùng chiến tranh trên khắp Việt Nam, mang tên của những anh hùng quá khứ của Việt Nam, yêu cầu phải có các hoạt động tuyên truyền để giải thích cho người dân rằng con đường phía trước của họ chỉ có thể là kháng chiến bạo lực chống